Nhặt chuyện những dòng sông...(3)
(Cadn.com.vn) - Ai đó đã từng viết “Đất nước có nhiều dòng sông nhưng trong mỗi người chỉ có một dòng sông để thương, để nhớ - như đời người có nhiều cuộc tình nhưng chỉ có một cuộc tình để mãi mãi mang theo”. Có lẽ vì thế mà “dòng sông để thương, để nhớ” của mỗi người mỗi khác. Nếu tên tuổi Văn Cao gắn liền với sông Lô hùng tráng; Hoàng Cầm là nỗi nhớ miên man khi ngang qua “Sông Đuống trôi đi một dòng lấp lánh” và Hoài Vũ mãi là nhà thơ của con sông Vàm Cỏ đêm ngày tha thiết chở phù sa… thì Hoàng Phủ Ngọc Tường đã song hành cùng sông Hương với câu hỏi da diết, vang vọng “Ai đã đặt tên cho dòng sông?”...
Xem lại kỳ trước: Nhặt chuyện những dòng sông... (2)
Kỳ 3: Sông Hương kể chuyện đời mình...
1. Viết về bất cứ dòng sông nào trên trái đất, người ta cũng cần thể hiện được một tình yêu tha thiết, lắng sâu và một sự am tường về những vấn đề địa lý, lịch sử và văn hóa gắn liền với dòng sông ấy. Đã có nhiều nhà văn, nhà thơ yêu mến sông Hương đã tặng cho sông Hương những tác phẩm bất hủ. Trong đó có Hoàng Phủ Ngọc Tường, người đã viết nên một thiên tuyệt bút có nhan đề Ai đã đặt tên cho dòng sông?...
Sông Hương qua cái nhìn của Hoàng Phủ Ngọc Tường đã mang dáng hình một cô gái mỹ miều đến với tình yêu. Hãy ngắm nhìn “nàng” trước khi gặp Huế, đó là “một cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại”, “bản lĩnh và gan dạ”, có một tâm hồn “tự do và trong sáng”, đó là hình ảnh “bản trường ca của rừng già” rầm rộ và mãnh liệt nhưng cũng có lúc “dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng”, nàng đã chế ngự sức mạnh bản năng của mình để đến lúc ra khỏi rừng già sẽ trở nên dịu dàng và trí tuệ.
Để đến với Huế, sông Hương phải băng qua một hành trình chuyển dòng liên tục, như một cuộc kiếm tìm thiết tha và rạo rực, biết bao địa danh dòng sông đã qua như Điện Hòn Chén, núi Ngọc Trản, bãi Nguyệt Biều, Lương Quán, đồi Thiên Mụ... “Nàng” nhẹ nhàng uốn một cánh cung thật đẹp đến khi giáp mặt với thành phố. Từ một dòng sông hoang dại, bí ẩn, nàng đã trở thành một sông Hương rất mực dịu dàng, rất mực tài hoa, rất mực kiên cường, rất mực hy sinh...
Cho nên, từ khi có được sông Hương, Huế - chàng Kim của “nàng”- cũng có nhiều thay đổi. Từ hoang sơ với “cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại” hay kiêu hãnh âm u với những lăng tẩm đền đài đồ sộ, đã hóa thành vẻ đẹp cổ kính mà thơ mộng với đô thị cổ, trải dọc hai bờ sông. Huế càng lung linh hơn khi sông Hương chở trong lòng Huế những nét đặc thù của hội hoa đăng, của ca Huế, man mác tiếng rơi của những mái chèo khuya.
Sông Hương của Hoàng Phủ Ngọc Tường không chỉ mang vẻ đẹp trời phú mà còn ánh lên vẻ đẹp của con người, những tài nữ đánh đàn, những người dân Châu Hóa lái thuyền xuôi ngược, những người con anh dũng đã hy sinh, những Nguyễn Du, những bà huyện Thanh Quan, những Tố Hữu... đã viết thơ trên dòng chảy long lanh in bóng mây trời.
![]() |
Cầu Trường Tiền-"chiếc vương miện" nối liền đôi bờ sông Hương, |
2. Quang cảnh đôi bờ sông nào thành quách, phố xá, vườn cây, chùa tháp... bóng lồng mặt nước phản chiếu lung linh làm cho dòng sông đã yêu kiều càng nên thơ nên nhạc. Nhiều người nghĩ rằng sở dĩ Huế có được cái êm đềm, dịu dàng, yên tĩnh phần lớn là nhờ sông Hương - dòng sông xanh đã đem lại cho thành phố cái chất thơ trầm lắng, cái trong sáng hài hòa tỏa ra từ vùng đất có chiều sâu văn hóa, lịch sử.
Kể từ khi Nguyễn Hoàng vào Ái Tử trấn nhậm phương Nam cho đến khi các chúa Nguyễn tìm được làng Kim Long bên bờ sông Hương làm “chỗ dừng chân”, dòng sông ấy đã mất 78 năm chờ đợi (1556 - 1636). Còn chỉ từ Kim Long về tới làng Phú Xuân cách nhau chừng 5 cây số, dòng sông ấy cũng phải mất tới 51 năm mới được nối liền (1636 - 1687). Đến thời Trịnh - Nguyễn phân tranh, đất nước đắm chìm trong triền miên chiến trận, sông Hương còn phải chờ thêm 118 năm nữa (1687 - 1805) mới có được hòa bình, xây dựng kinh đô. Có sông Hương, Huế trở thành biên thùy xa xôi của đất nước các vua Hùng, Huế chiến đấu ngoan cường để bảo vệ biên giới phía Nam của Đại Việt, Huế là kinh thành của người anh hùng áo vải Nguyễn Huệ. Huế cùng sông Hương đi vào Cách mạng tháng Tám bằng những chiến công lẫy lừng, rung chuyển.
3. Thiên nhiên khắc nghiệt, đất cát khô cằn, chỉ với sản vật từ chính dòng sông và những mảnh vườn được dòng sông tưới tắm, bằng trí tuệ và tài khéo, cư dân châu thổ sông Hương đã sáng tạo cho mình, cho cộng đồng và cho hậu thế những sáng tạo đặc sắc bằng thành tựu của một nền văn hóa ẩm thực dân dã mà cao sang, hàm chứa một kho tàng tri thức Việt, uyên thâm về tự nhiên và xã hội. Cá bống thệ kho rim, bát canh cá dìa ngon ngọt, tô cơm hến nồng nàn, trái vả xanh kho chung với tôm thịt, thậm chí cát, sạn móc từ đáy sông để xây dựng kinh thành... là những gì sông Hương rút ruột dâng đời.
Dòng sông ấy thực sự là chiếc nôi ấm, mềm sản sinh những câu hò vang vọng trong không gian và thời gian, để nuôi dưỡng một tình yêu lịch sử và thiên nhiên sâu thẳm, ru vỗ, an ủi con người. Và cũng chính từ hai bên bờ sông ấy hình thành nên những làng nghề đẹp như tranh trải dọc đôi bờ... Chính tâm thế văn hóa và giá trị cần lao đầy ý thức đã làm cho sông Hương trở thành một vẻ đẹp tự thân, kín đáo, đằm thắm mà thẳm sâu, không dễ gì nhận biết và không dễ dàng lãng quên đối với một ai đã từng đến Huế, yêu Huế...
Doãn Hùng
Kỳ cuối: Nơi con sông Hàn xuôi về với biển...